Những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Thái Nguyên trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp

Thứ ba - 18/10/2022 22:43   Đã xem: 191   Phản hồi: 0

Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Tháng 12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Bác đã cùng Trung ương Đảng trở lại An toàn khu (ATK) vùng Việt Bắc, trong đó có Thái Nguyên để lãnh đạo toàn dân kháng chiến kiến quốc. Với cương vị Chủ tịch nước và sau đó là Chủ tịch Đảng, Người còn là nhà ngoại giao kiệt xuất, là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, trực tiếp dẫn dắt, chỉ đạo những thế hệ cán bộ ngoại giao tiền bối trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp tại ATK. Những hoạt động ngoại giao của Bác giai đoạn 1947 - 1954 tại ATK Thái Nguyên đã cho thấy đỉnh cao của tư tưởng, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, để lại những bài học lớn về đối ngoại cho những giai đoạn cách mạng tiếp theo và đến ngày nay khi đất nước hướng tới các mục tiêu phát triển quan trọng trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

1. Bối cảnh quốc tế và Việt Nam
Khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, với sự ra đời của các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và sự thành lập của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã được hình thành, trải dài suốt lục địa Á - Âu với trên 800 triệu dân. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đã trở thành động lực và chỗ dựa to lớn cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ, tạo nên dòng thác cách mạng đánh đổ chủ nghĩa thực dân.
Các nước đế quốc thống nhất với nhau trong mục tiêu chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới, nhưng lại mâu thuẫn gay gắt do tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng. Sự phân hóa sau chiến tranh và tập hợp lực lượng mới trên thế giới và ở Viễn Đông tác động phức tạp tới tình hình Việt Nam, khi quân đội Đồng Minh vào giải giáp quân đội Nhật và nhiều nước lớn tìm cách phân chia quyền lợi. Mặc dù ở phe thắng trận, nước Pháp đã bị thiệt hại nặng nề, muốn quay trở lại để tiếp tục bóc lột các nước thuộc địa cũ, trong đó, việc tái chiếm Đông Dương đã nằm trong kế hoạch của Chính phủ Pháp. Tham vọng của Pháp phần nào được các nước đế quốc đồng minh ủng hộ.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Thế nhưng, đất nước lúc này gặp phải muôn vàn khó khăn, bị cô lập, bao vây. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tỏ rõ thiện chí, khát vọng hòa bình, thể hiện qua Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946. Tuy nhiên, phái hiếu chiến trong Chính phủ Pháp và thực dân vẫn ráo riết tìm cách xâm lược Việt Nam.
Ngày 19/12/1946, hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc Kháng chiến, nhân dân Việt Nam đã đứng lên chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ quyền và quyền dân tộc thiêng liêng. Trung ương Đảng và Bác trở lại chiến khu Việt Bắc, trong đó ATK Định Hóa (Thái Nguyên) là nơi được chọn đặt bản doanh của Trung ương Đảng, Chính phủ, Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng, nơi Bác cùng các đồng chí lãnh đạo cấp cao ở và làm việc. Nằm ở vị trí trung tâm của căn cứ địa, ATK Thái Nguyên hội tụ đủ các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa, có địa thế hiểm trở để bảo vệ an toàn cho các cơ quan đầu não kháng chiến, có thể thuận tiện đi sang các địa phương lân cận ở vùng biên giới phía Bắc, bảo đảm giao lưu quốc tế, tiếp nhận vật chất, vũ khí từ các nước xã hội chủ nghĩa. Tại đây, Bác Hồ một mặt lãnh đạo đồng bào kháng chiến, mặt khác củng cố và phát triển Đảng, gây dựng nội lực, đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận ngoại giao.
2. Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp tại ATK Thái Nguyên
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo, chỉ đạo Trung ương Đảng đề ra đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 12/12/1946, Bác Hồ cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, là văn kiện mang tính chất cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Về đường lối đối ngoại, Chỉ thị tiếp tục đưa ra chủ trương đoàn kết quốc tế, nêu rõ lập trường quốc tế của Đảng: “3. Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống bọn phản động thực dân Pháp. 4. Đoàn kết với hai dân tộc Miên, Lào và các dân tộc bị áp bức trong khối Liên hiệp Pháp. 5. Thân thiện với các dân tộc Tàu, Xiêm, Miến Điện, Ấn Độ, Nam Dương và các dân tộc yêu chuộng dân chủ, hòa bình trên thế giới[1]. Chủ trương đúng đắn nói trên đã tạo sự tiếp nối và khẳng định kiên quyết về đường lối đối ngoại độc lập dân tộc, hòa bình và hữu nghị với nhân dân thế giới - vốn đã được đề ra tại các văn kiện của Đảng và Nhà nước ngay trước và sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập[2].
Về lập trường quan hệ với Pháp, Đảng và Bác đã xác định rõ kẻ thù là thực dân Pháp, nhưng đồng thời tranh thủ nhân dân và lực lượng tiến bộ ở Pháp. Chính sách đối ngoại đó cho thấy tầm nhìn chiến lược của Người về đoàn kết quốc tế, về đối tác - đối tượng và phân hóa kẻ thù. Nội dung này được nêu trong Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương tháng 4/1947, Đảng khẳng định: “Khẩu hiệu “đòi độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp” tuyệt đối không phải là một khẩu hiệu do dự, lừng chừng. Chúng ta chủ trương chỉ ngừng bắn khi nào Pháp nhìn nhận độc lập và thống nhất thật sự, chứ chúng ta không chủ trương tách Đông Dương ra khỏi khối Liên hiệp Pháp để ngả vào cánh tay của Anh-Mỹ. Chúng ta vẫn chủ trương liên minh với nhân dân Pháp xây dựng dân chủ và hòa bình chung[3].
Tháng 2/1951, Trung ương Đảng và Bác triệu tập Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng, đề ra đường lối cách mạng Việt Nam. Đại hội khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và đề ra nhiệm vụ quốc tế của cách mạng Việt Nam. Tuyên ngôn của Đảng chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam chủ trương dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ và giúp đỡ hai dân tộc Miên, Lào kháng chiến giành độc lập, cùng Việt Nam hoàn toàn giải phóng Đông Dương; tích cực ủng hộ phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức; đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, liên hiệp mật thiết với nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa Pháp đang góp phần vào công cuộc chống đế quốc, gìn giữ hòa bình và dân chủ thế giới[4]. Chủ trương này đã thể hiện tầm nhìn của Đảng và Bác nhằm tận dụng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vì hoà bình và tiến bộ xã hội.
1
Bác Hồ và Hoàng Thân Xuphanuvong tại Việt Bắc
Trong điều kiện cơ sở hoạt động cách mạng ở ATK Thái Nguyên còn nhiều khó khăn, ngay từ sớm, Đảng và Bác đã coi trọng công tác tuyên truyền đối ngoại, yêu cầu “phải chú trọng công tác tuyên truyền quốc tế”. Điều này có ý nghĩa lớn, bởi khi đó Việt Nam chưa được đông đảo bạn bè quốc tế biết đến và nhiều quốc gia trên thế giới công nhận. Mục đích của cuộc đấu tranh dư luận quốc tế là kiên trì vạch trần tội ác chiến tranh do thực dân Pháp gây ra, làm cho thế giới và dư luận Pháp nhận rõ tính chính nghĩa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, làm điểm tựa cho phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ở Đông Dương.
2.2. Hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tại ATK Thái Nguyên, trong tình thế cách mạng bị bao vây cô lập, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gặp muôn vàn khó khăn, Bác Hồ đã có những hoạt động ngoại giao quan trọng như: làm việc với Chính phủ kháng chiến Lào và Mặt trận Lào yêu nước Ítxala, đoàn cố vấn Trung Quốc; đại diện các Đảng Cộng sản Pháp, Thái Lan, Liên Xô… Với trọng trách là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác Hồ đã chỉ đạo và trực tiếp thực hiện có kết quả nhiều hoạt động đối ngoại.
Thứ nhất, tranh thủ các khả năng hòa bình với Pháp và chủ động tiến công trên mặt trận ngoại giao, vận động nhân dân Pháp và nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng thực hiện các hoạt động ngoại giao để tranh thủ và vận động dư luận Pháp. Người thường gửi thư, thông điệp tới nhân dân Pháp làm rõ lập trường về cuộc xung đột Việt - Pháp, kêu gọi nhân dân Pháp hành động đòi Chính phủ Pháp chấm dứt cuộc xâm lược. Từ tháng 12/1946 đến tháng 3/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 8 lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội và Tổng thống Pháp, đề nghị hòa bình: “Chúng tôi muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dòng máu đó, chúng tôi đều quý như nhau[5]. Người cũng luôn tận dụng mọi cơ hội để gặp gỡ phóng viên nước ngoài nhằm làm cho dư luận hiểu vấn đề Việt Nam, khẳng định lại chủ trương của Việt Nam hợp tác với Pháp.
Cuộc chiến tranh ngày càng mở rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động trao đổi với các quan chức, chính giới Pháp như Paul Mus - cố vấn chính trị của Cao ủy Bollaert (5/1947) tại Thái Nguyên; gửi thư cho tướng Salan - tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương và nhờ chuyển thư cho Léon Blum - lãnh tụ Đảng Xã hội Pháp (giữa năm 1947). Các hoạt động của Người đã nêu rõ quan điểm của Chính phủ và nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình và muốn có quan hệ tốt với nhân dân Pháp, phân rõ thiệt hơn về cuộc chiến Việt - Pháp, phê phán nghiêm khắc những điều kiện đồng nghĩa với đầu hàng mà chính quyền Pháp nêu ra. Trước những hoạt động của Người, đầu tháng 8/1947, Léon Blum đã tuyên bố trên báo Pháp: “tôi đã nhận được theo đường chính thức một thư riêng của ông (Chủ tịch Hồ Chí Minh). Ông vẫn là đại diện chân chính và xứng đáng của nhân dân Việt Nam... Đã có ánh sáng ở Đông Dương”[6].
Trong hoàn cảnh mới, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa các bên đối phương có mặt ở Việt Nam. Sau chiến dịch Thu - Đông năm 1947 của Pháp, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa   đã công bố Sách Trắng về thất bại nặng nề của Pháp để tác động vào dư luận Pháp và quốc tế. Ngày 19/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa tuyên bố với nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp: “nhân dân Việt Nam… quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp muốn… giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình, thì nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam… sẵn sàng nói chuyện”. Tuyên bố của Người gây tiếng vang lớn, nhất là ở Pháp. Các đoàn thể, quần chúng, thương binh từ chiến trường trở về và nhiều nhà chính trị Pháp đã sôi nổi đòi Chính phủ Laniel phải đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh với các khẩu hiệu “Hoà bình ở Việt Nam”, Điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh” và “Chúng tôi là nạn nhân chiến tranh ở Việt Nam”. Đó là những minh chứng rõ nét cho thấy Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ những mâu thuẫn, bất đồng trong nội bộ Pháp để từ đó khai thác triệt để, tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình, từng bước đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp.
Thứ hai, hình thành liên minh chiến đấu, đẩy mạnh giúp đỡ cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia
Nhận thức rõ tầm quan trọng của sự đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương trong hình thành liên minh kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết chặt chẽ ba dân tộc. Với bạn Lào, những hoạt động ngoại giao của Người giai đoạn này đã thể hiện sự quan tâm, chú ý tới các mối quan hệ cá nhân với lãnh đạo kháng chiến Lào. Từ cuối năm 1947, dưới sự chỉ đạo của Người, Việt Nam đã cử một số cán bộ, chiến sĩ sang giúp lực lượng kháng chiến Lào hoạt động tuyên truyền vũ trang. Cuối năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đón Hoàng thân Xuphanuvông, lãnh tụ kháng chiến Lào từ Thái Lan về Việt Bắc. Hai nhà lãnh đạo đánh giá tình hình và bàn phương hướng phối hợp đẩy mạnh cuộc kháng chiến của hai dân tộc. Sau đó, Hoàng thân nhiều lần quay trở lại Việt Bắc, làm việc và trao đổi thư từ với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với bạn Campuchia, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân hai nước. Trong thư trả lời Chủ tịch Chính phủ Campuchia giải phóng kêu gọi sự giúp đỡ của nhân dân Việt Nam ngày 12/12/1947, Người khẳng định: “Các dân tộc ta, đã sẵn có một tinh thần tranh đấu cao, lại gắng đi tới một sự cộng tác chặt chẽ, thì thắng lợi thế nào cũng về ta, và chúng ta nhất định sẽ giành được độc lập[7]. Đầu tháng 2/1948, khi làm việc với đoàn cán bộ Nam Bộ, Bác đã yêu cầu phái đoàn báo cáo về những chủ trương và hoạt động cụ thể của Xứ ủy Nam Bộ để phối hợp với lực lượng kháng chiến Campuchia. Người nhắc nhở cần giúp đỡ lực lượng kháng chiến Campuchia, đẩy mạnh hoạt động hơn nữa để hỗ trợ chiến trường Nam Bộ[8].
Trong quá trình đấu tranh, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giáo dục tinh thần quốc tế cho các cán bộ, chiến sĩ. Tại Hội nghị liên minh ba nước Đông Dương tháng 9/1952, Bác Hồ đã nói: “Nhân dân Việt Nam hết lòng thành thật giúp đỡ nhân dân Lào, nhân dân Miên một cách vô điều kiện. Sự thật thì chưa thể tìm ra chữ gì để thay thế chữ “giúp”, chứ thực ra không phải là giúp mà là nghĩa vụ quốc tế[9]. Những hoạt động tích cực của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần hình thành mặt trận ba dân tộc Việt - Miên - Lào, trở thành biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến thắng quân sự và đấu tranh ngoại giao của Việt Nam trong những năm tiếp theo.
Thứ ba, tăng cường quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô
Tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ khi Người luôn nhận định, nhìn thấy khả năng Trung Quốc và Liên Xô sẽ là cánh cửa, là cầu nối để Việt Nam mở rộng quan hệ với bạn bè thế giới. Vì thế, Người không từ bỏ một cơ hội nào dù là nhỏ nhất để xây đắp mối quan hệ tốt đẹp, hữu nghị với Trung Quốc và sau đó là Liên Xô như: nêu cao tinh thần quốc tế; hết lòng giúp đỡ khi cách mạng Trung Quốc yêu cầu dù có thời điểm cách mạng nước bạn gặp nhiều khó khăn; cử các đoàn công tác làm việc với đại diện Chính phủ Liên Xô để thông báo về tình hình, cách mạng Việt Nam… Những sự chuẩn bị của Người đã tạo tiền đề để quan hệ Việt Nam với Trung Quốc và Liên Xô chính thức đơm hoa kết trái. Sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, ngày 5/12/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện chúc mừng tới Chủ tịch Mao Trạch Đông[10]. Ngày 18/1/1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đến ngày 30/1/1950, Liên Xô cũng chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây là một sự kiện quan trọng, từ đó, nhiều quốc gia khác lần lượt công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam, phá vỡ thế bao vây cô lập, đem lại sự ủng hộ vô cùng quan trọng và có ý nghĩa chiến lược cho cuộc kháng chiến.
Trên đà phát triển quan hệ với hai nước, nắm bắt thời cơ, đầu năm 1950, từ ATK, Người đã chủ động, bí mật đi Trung Quốc, Liên Xô nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, tranh thủ sự viện trợ của nước bạn cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Tại cuộc hội đàm với Stalin, có sự tham dự của Mao Trạch Đông, Người giải thích tình hình Việt Nam, Đông Dương, những khó khăn của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thông báo về diễn biến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam và đề nghị Liên Xô cùng phong trào cộng sản, công nhân quốc tế giúp đỡ. Cuộc tiếp xúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông và Stalin tháng 2/1950 là cuộc tiếp xúc đầu tiên và cũng là cuối cùng của lãnh đạo cấp cao ba nước, có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam, mở ra bước ngoặt mới, tăng cường sức mạnh vật chất, tinh thần đối với cuộc kháng chiến, góp phần nâng cao, khẳng định vị thế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hoạt động của Người đã cho thấy nỗ lực không ngừng, linh hoạt, tận dụng mọi điều kiện giao thiệp, mặc dù có thời điểm Liên Xô, Trung Quốc còn chưa công nhận Việt Nam. Đó là thành công trong thực hiện chủ trương tranh thủ điều kiện quốc tế, tận dụng sức mạnh thời đại của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ tư, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước trong khu vực, các nước xã hội chủ nghĩa khác và nhân dân thế giới
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng hoà bình dân chủ trên thế giới. Trong nhiều phát biểu, trả lời phỏng vấn, Người khẳng định: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới; hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt Nam. Người nêu các quan điểm về chính sách đối ngoại hữu nghị và hợp tác của Việt Nam, khẳng định Việt Nam muốn “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Ngày 14/1/1950, trong lời tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cùng các nước trên thế giới, Người tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”. Sau tuyên bố này, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao: Triều Tiên (31/1/1950); Tiệp Khắc và Cộng hoà dân chủ Đức (2/2/1950); Rumani (3/2/1950); Ba Lan và Hungari (4/2/1950); Bungari (8/2/1950); Anbani (11/2/1950)[11]. Việc triển khai quan hệ trên nhiều hướng đã góp phần mở rộng tập hợp lực lượng quốc tế, hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, tạo thuận lợi để cách mạng Việt Nam tiếp tục tranh thủ được sự ủng hộ và viện trợ quan trọng về cả khí tài, kinh tế và trên các diễn đàn quốc tế.
Thứ năm, tranh thủ khả năng hòa bình tại Hội nghị Geneva
Vào giai đoạn cuối của cuộc chiến, trên cơ sở thế và lực của cuộc kháng chiến, nhận định đúng xu thế phát triển của tình hình thế giới và ý định hòa hoãn của các nước lớn trên thế giới, Trung ương Đảng và Bác đã chủ trương “vừa đánh vừa nói chuyện” theo tinh thần “phải chủ động cả hai mặt nhưng yếu tố quyết định vẫn là đấu tranh quân sự. Ta càng đánh thắng, nói chuyện càng thuận lợi...”. Tháng 11/1953, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở cuộc tiến công trên mặt trận đối ngoại, hoan nghênh và ủng hộ việc triệu tập hội nghị quốc tế bàn về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 3/1954, Người và Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc và Liên Xô để trao đổi với lãnh đạo hai nước. Việc chấp nhận đàm phán và ký kết Hiệp định Geneva kết thúc chiến tranh vào tháng 7/1954 là một quyết định đúng đắn, cho thấy sự thức thời và nhìn trước, thấy trước tình hình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ của nhân dân Việt Nam toàn thắng, kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ, gian khổ. Thắng lợi ở Điện Biên Phủ đã làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Geneva. Ngay sau chiến thắng, Bác đã gửi thư khen ngợi quân và dân ta, đồng thời nhắc nhở: “Thắng lợi tuy lớn nhưng mới chỉ là bước đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan… Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải đấu tranh trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn[12]. Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, mặt trận quân sự kết hợp chặt chẽ với mặt trận đối ngoại từng bước làm nhụt ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán.
Ngày 8/5/1954, cuộc đàm phán Geneva là lần đầu tiên nước ta bước vào đàm phán một hiệp định đa phương với nhiều nước lớn tham gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sát sao việc đấu tranh trên bàn đàm phán và tranh thủ ý kiến của Trung Quốc và Liên Xô. Hiệp định Geneva được ký kết, là thắng lợi to lớn của nhân dân ta dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Người. Hiệp định là cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn đất nước. Thắng lợi tại Hội nghị Geneva đánh dấu mốc lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam, góp phần phát triển cách mạng Lào và Campuchia, cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc, thúc đẩy quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới[13].
3. Ý nghĩa to lớn của các hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh giai đoạn 1947 - 1954 đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay
Các hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian Người về ATK Thái Nguyên không chỉ góp phần vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam mà còn là hình mẫu, nền tảng tư tưởng cho đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước trong công cuộc hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện hiện nay.
2
Tượng Bác Hồ tại Khu trưng bày ATK Định Hóa
Thứ nhất, luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, sáng tạo - nhân tố quyết định thành công của mọi hoạt động đối ngoại
 Đây là tư tưởng chủ đạo, bao trùm mọi hoạt động đối ngoại - từ việc hoạch định đường lối, chính sách đến các hoạt động đối ngoại cụ thể. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn là kim chỉ nam cho nhận thức và hành động của ngoại giao Việt Nam. Bác xem “tự lực cánh sinh là cái gốc, điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta”. Nêu cao tinh thần đó, hoạt động đối ngoại của Người đã dẫn dắt đất nước ta tránh không bị cuốn vào ý đồ của các thế lực quốc tế. Người luôn theo dõi sát diễn biến tình hình thế giới, thái độ của các đối tượng, căn cứ vào yêu cầu của cách mạng nước ta để đề ra nhiệm vụ, phương pháp đối ngoại cho từng giai đoạn cụ thể, đồng thời có chính sách đối xử với từng đối tượng thích hợp.
Độc lập tự chủ thể hiện trong tư duy nhận thức độc lập và sáng tạo, trong quyết sách và thực hiện đường lối chính sách. Để thực hiện điều đó trong công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế, hoạt động đối ngoại cần luôn xuất phát từ mục tiêu cách mạng, hoàn cảnh trong nước mà xác định nguyên tắc, đối sách phù hợp với xu thế chính trị thế giới và tôn trọng quy luật khách quan.
Thứ hai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi sức mạnh dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích dân tộc với nghĩa vụ quốc tế, đặt cuộc kháng chiến của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình và tiến bộ xã hội. Người chủ trương đưa cách mạng Việt Nam đi theo con đường của thời đại, gắn kết sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam với sự nghiệp cách mạng thế giới; gắn kết cách mạng Việt Nam với phong trào cộng sản quốc tế; và gắn kết Việt Nam vào khối Xã hội Chủ nghĩa để tranh thủ sự ủng hộ cho cách mạng.
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam muốn phát triển phải luôn gắn kết với thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế và thu hút nguồn lực bên ngoài, phục vụ  phát triển đất nước. Trong công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay, sức mạnh dân tộc Việt Nam là sự tổng hợp của yếu tố vật chất và tinh thần, là sự kết hợp sức mạnh của truyền thống lịch sử, chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao..., trong đó quan trọng nhất là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh thời đại luôn mang nội hàm mới, phù hợp với sự phát triển của nhân loại, là sức mạnh đoàn kết, đấu tranh của các lực lượng tiến bộ vì hòa bình; là các tiến bộ vượt bậc của cách mạng khoa học công nghệ; là những cơ hội mà toàn cầu hóa tạo ra...
Thứ ba, phát huy truyền thống hòa hiếu của dân tộc, giương cao ngọn cờ độc lập, hòa bình, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ
 Hòa hiếu trong bang giao là một truyền thống quý báu của dân tộc, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng truyền thống đó lên tầm cao mới, trở thành tư tưởng lớn trong hoạt động đối ngoại của Người xuyên suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Giai đoạn 1947 - 1954, Người luôn chủ trương thực hiện chính sách hoà hiếu với tất cả các nước tôn trọng chủ quyền độc lập của nước Việt Nam, kể cả những nước đã từng là kẻ thù xâm lược. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay, cần tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Trong quan hệ quốc tế, cần chú trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Thứ tư, quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn, coi trọng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu bền với các nước láng giềng
Việc xử lý hài hoà quan hệ với các nước lớn, đồng thời coi trọng quan hệ với các nước láng giềng là một nội dung quan trọng trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. Nguyên tắc cơ bản mà Người đề ra là: Nắm vững lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ, cố gắng tìm mẫu số chung về lợi ích, thi hành chính sách cân bằng không để quan hệ với nước này ảnh hưởng đến quan hệ với các nước khác; khéo léo tận dụng điểm đồng để thúc đẩy quan hệ với các nước lớn. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Người, Việt Nam đã tạo lập được liên minh chiến đấu ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia, từ năm 1950 thiết lập được quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng quốc tế.
Hiện nay, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Cạnh tranh chiến lược tiếp tục diễn ra gay gắt, quyết liệt hơn, tác động lớn đến môi trường an ninh và phát triển của Việt Nam. Do đó, chúng ta cần tiếp tục kế thừa, phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đó coi trọng việc xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn, luôn chủ trương tôn trọng và giữ thể diện cho nước lớn, luôn phải “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Thứ năm, hình thành rõ nét tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, phong cách và nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh
Thời kỳ tại ATK Thái Nguyên lãnh đạo kháng chiến chống Pháp, mặc dù điều kiện cơ sở vật chất hạn chế, hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn rất sáng tạo, để lại cho chúng ta những mẫu mực về phong cách và nghệ thuật ngoại giao: (1) Dự đoán đúng về xu thế, xác định rõ mục tiêu; (2) Linh hoạt tạo thời cơ và kịp thời tận dụng; (3) Kết hợp đấu tranh ngoại giao với xây dựng thực lực, chính trị và quân sự; (4) Tìm kiếm bạn đồng minh và tận dụng mâu thuẫn nội bộ đối phương; (5) Kiên định về mục tiêu, linh hoạt về sách lược[14]. Những bài học sâu sắc đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ứng xử trong một thế giới ngày càng biến động phức tạp với thách thức và cơ hội đan xen hiện nay, những bài học về phong cách, nghệ thuật ngoại giao của Bác sẽ là nền tảng, hành trang quan trọng cho các thế hệ cán bộ, tiếp tục soi sáng cho công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay của nước ta.
Tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc (12/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Là người Việt Nam, dù ở trong nước hay nước ngoài, ai cũng mong muốn nước ta hùng cường, thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu, như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Thời gian tới, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của công tác đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước.
Trong giai đoạn cách mạng mới, trước thành quả lịch sử to lớn và quý báu mà các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã để lại, đặc biệt là những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian Người ở tại ATK Thái Nguyên, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, phát huy, tổng kết và rút ra các bài học, góp phần tạo nên nền tảng kiến thức, tư duy, phương pháp nghiên cứu đúng đắn để vận dụng trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước, để tiếp tục kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Bộ Ngoại giao
 
 
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 8, tr. 151, 178-179.
[2] Như: Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng (13-15/8/1945); Tuyên ngôn độc lập (2/9/1945); Thông cáo về chính sách ngoại giao của Chính phủ lâm thời dân chủ cộng hòa Việt Nam (3/10/1945); Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương về kháng chiến, kiến quốc (25/11/1945); Tuyên ngôn của Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/3/1946).
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 178-179.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t. 12, tr. 431.
[5] Nguyễn Phương Nga, “Văn hóa hòa bình Hồ Chí Minh và ý nghĩa thời đại”, Trang thông tin điện tử Liên hiệp các tổ chức hữu nghị thành phố Hà Nội,  https://haufo.hanoi.gov.vn/tin-tuc-su-kien/-/view_content/3690068-van-hoa-hoa-binh-ho-chi-minh-va-y-nghia-thoi-dai.html, ngày 8-5-2020.
[6] Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 1954-2000, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020, tr. 103.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 47.
[8] Đặng Văn Thái: Hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 149.
[9] Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Phá -  Thắng lợi và bài học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.135.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.254.
[11] Bộ Ngoại giao: Bộ Ngoại giao 70 năm xây dựng và phát triển,  Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 92.
[12] Viện Lịch sử Đảng: Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.947-948.
[13] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Cao cấp Lý luận Chính trị, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2019, tr. 68-69.
[14] Xem thêm: Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Hình ảnh hoạt động

Van-nghe-chao-mung.jpg Thi-sinh-Dai-Tu.jpg Gang-thep-Chuc-mung-thi-sinh.jpg Trao-giai-Ba-Nhung.jpg Van-nghe.jpg

Tư liệu - Văn kiện

Số 1182-CV/BTGTU

Đẩy mạnh tuyên truyền kỷ niệm 92 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 25 năm tái lập tỉnh Thái Nguyên và mừng Xuân Nhâm Dần 2022

Lượt xem:958 | lượt tải:199

Số 28-HD/BTGTU

Hướng dẫn nhiệm vụ trọng tâm công tác khoa giáo năm 2022

Lượt xem:935 | lượt tải:271

Số 27-HD/BTGTU

Hướng dẫn tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn năm 2022

Lượt xem:1042 | lượt tải:225

Số 1020-CV/BTGTU

Triển khai Cuộc thi trắc nghiệm “Chung tay phòng, chống dịch COVID-19” trên mạng xã hội VCNet

Lượt xem:16898 | lượt tải:4226

Số 20-HD/BTGTU

Hướng dẫn công tác tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo

Lượt xem:16969 | lượt tải:4029

Thống kê website

  • Đang truy cập3
  • Hôm nay372
  • Tháng hiện tại12,511
  • Tổng lượt truy cập17,503,493
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây